Ảnh hưởng của Ô Nhiễm Nước đến Con người, Sinh vật & Môi trường

1. Ảnh hưởng của ô nhiễm nước đến sức khoẻ con người và sinh vật

Theo số liệu năm 2022 từ WHO: 2,2 tỷ người không được sử dụng các nguồn nước đảm bảo tại chỗ (có sẵn khi cần và không bị ô nhiễm), trong đó khoảng 115 triệu người đang sử dụng nước mặt chưa qua xử lý từ các hồ, ao, sông và suối.

Nước bị ô nhiễm và điều kiện vệ sinh kém có liên quan trực tiếp đến việc lây truyền các bệnh như tả, tiêu chảy, kiết lỵ, viêm gan A, thương hàn và bại liệt. Việc thiếu hụt, không đầy đủ hoặc quản lý không đúng cách các dịch vụ cấp nước và vệ sinh khiến con người dễ bị phơi nhiễm với các rủi ro sức khỏe có thể phòng tránh được. Điều này đặc biệt đáng lo ngại trong các cơ sở y tế, nơi bệnh nhân và nhân viên y tế đều có nguy cơ cao hơn mắc các bệnh truyền nhiễm nếu thiếu hệ thống cung cấp nước, vệ sinh và vệ sinh tay đúng chuẩn.

Việc quản lý kém nước thải đô thị, công nghiệpnông nghiệp khiến nguồn nước uống của hàng trăm triệu người bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc nhiễm hóa chất độc hại. Ngoài ra, một số hóa chất có mặt tự nhiên trong nước, đặc biệt là trong nước ngầm — như asen và fluor — cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe. Một số chất khác như chì có thể tăng cao trong nước uống do sự rò rỉ từ vật liệu trong hệ thống cấp nước tiếp xúc trực tiếp với nước uống.

Ước tính khoảng 1 triệu người tử vong mỗi năm do tiêu chảy liên quan đến nước uống không an toàn, điều kiện vệ sinh kém và vệ sinh tay không đảm bảo. Tuy nhiên, tiêu chảy phần lớn có thể phòng tránh được, và mỗi năm có thể ngăn ngừa được khoảng 395.000 ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi nếu những yếu tố rủi ro này được kiểm soát hiệu quả. Ở những nơi thiếu nước sạch, con người có thể không ưu tiên việc rửa tay, làm tăng nguy cơ mắc tiêu chảy và các bệnh truyền nhiễm khác.

Tiêu chảy là bệnh phổ biến nhất liên quan đến thực phẩm và nước bị ô nhiễm, nhưng còn nhiều mối nguy khác. Năm 2021, hơn 251,4 triệu người cần được điều trị dự phòng bệnh sán máng — một căn bệnh cấp và mãn tính do giun ký sinh gây ra khi tiếp xúc với nước bị nhiễm ấu trùng.

Tại nhiều khu vực trên thế giới, các loài côn trùng sống hoặc sinh sản trong nước cũng là vật trung gian truyền bệnh như sốt xuất huyết. Một số loài côn trùng này sinh sản trong nước sạch chứ không phải nước bẩn, và các dụng cụ chứa nước uống trong hộ gia đình có thể trở thành nơi sinh sản lý tưởng cho chúng. Một biện pháp đơn giản như đậy kín nắp các vật chứa nước sinh hoạt có thể giúp giảm sinh sản của côn trùng truyền bệnh và cũng giảm nguy cơ nước bị nhiễm phân tại hộ gia đình.

  • Bệnh truyền nhiễm, ngộ độc qua nước ăn uống:

Do ăn uống nước bị nhiễm sinh vật gây bệnh, (ví dụ: Thương hàn, tả, viêm gan A, lỵ, bại liệt, giun sán v.v.) hoặc nước có chứa các chất có nồng độ vượt chuẩn quy định gây hại cho sức khỏe (vd: Pb, nitrat,…)

Biện pháp dự phòng: Tránh làm nhiễm bẩn nguồn nước đặc biệt là với phân người và động vật; Xử lý tốt nước sinh hoạt trước khi sử dụng; Thực hiện ăn chín, uống sôi;…

  • Bệnh do tiếp xúc với nước ô nhiễm

Lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với các chất ô nhiễm, sinh vật gây bệnh có trong nước.

Ví dụ: bệnh sán máng (Schistosomiases) xảy ra ở những người bơi lội dưới nước có loài ốc bị nhiễm những sinh vật gây các bệnh này sinh sống. Các ấu trùng rời khỏi cơ thể ốc vào nước và sẵn sàng xuyên qua da của con người.

Biện pháp phòng tránh: thu gom, xử lý phân hợp vệ sinh; không tiếp xúc với nước bị nhiễm bẩn.;…

  • Các bệnh do côn trùng truyền

Sốt rét, sốt Dengue, SXH Dengue, bệnh giun chỉ, các bệnh viêm não (ví dụ viêm não Nhật Bản thường gặp ở trẻ em). Côn trùng trung gian truyền bệnh là các loại muỗi.

Biện pháp phòng tránh: Nằm ngủ trong màn, tiêu diệt muỗi và bọ gậy/lăng quăng, khơi thông cống rãnh. Đối với dụng cụ chứa nước sinh hoạt (bể nước, chum, vại,…) cần được đậy kín nắp để muỗi không đẻ trứng vào hoặc thả cá để bắt bọ gậy/lăng quăng.

  • Bệnh do thiếu nước trong vệ sinh cá nhân

Các bệnh ngoài da (ví dụ ghẻ, nấm, hắc lào…), bệnh mắt hột và bệnh viêm màng kết,…. do ký sinh trùng, các vi khuẩn, virus, nấm mốc gây ra. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nước sạch để vệ sinh cá nhân.

Biện pháp phòng tránh: sử dụng nguồn nước sạch để vệ sinh cá nhân.

  • Bệnh do vi yếu tố và các chất khác trong nước

Bệnh bướu cổ: do đất, nước, thực phẩm quá thiếu iốt, ví dụ: vùng núi cao, vùng xa biển

Bệnh về răng do thiếu hoặc thừa flo: Flo < 0,5 mg/l sẽ bị bệnh sâu răng, >1,5 mg/l sẽ làm hoen ố men răng và các bệnh về khớp.

Ô nhiễm kim loại nặng và hợp chất hóa học trong nước (chì, asen, thủy ngân, thuốc trừ sâu…) gây ra nhiều hậu quả lâu dài như: chậm phát triển trí tuệ, rối loạn hành vi, giảm chỉ số IQ; Tổn thương thần kinh, gan, thận, xương,…; Rối loạn nội tiết, vô sinh; Nguy cơ ung thư, ung thư, chết,…

2.  Ảnh hưởng của ô nhiễm nước đến môi trường

Để phát triển mạnh, các hệ sinh thái lành mạnh dựa vào một mạng lưới phức tạp gồm động vật, thực vật, vi khuẩn và nấm – tất cả đều tương tác trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau. Tác hại đối với bất kỳ sinh vật nào trong số này có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền, gây nguy hiểm cho toàn bộ môi trường nước.

Khi ô nhiễm nước gây ra hiện tượng tảo nở hoa trong môi trường hồ hoặc biển, sự gia tăng của các chất dinh dưỡng mới được đưa vào sẽ kích thích sự phát triển của thực vật và tảo, từ đó làm giảm nồng độ oxy trong nước. Tình trạng thiếu oxy này, được gọi là hiện tượng phú dưỡng, làm ngạt thở thực vật và động vật và có thể tạo ra “vùng chết”, nơi nước về cơ bản không có sự sống. Trong một số trường hợp nhất định, những loài tảo nở hoa có hại này cũng có thể tạo ra chất độc thần kinh ảnh hưởng đến động vật hoang dã, từ cá voi đến rùa biển.

Hóa chất và kim loại nặng từ nước thải công nghiệp và đô thị cũng làm ô nhiễm môi trường nước. Những chất gây ô nhiễm này độc hại đối với đời sống thủy sinh, thường làm giảm tuổi thọ, khả năng sinh sản của sinh vật, tích luỹ và khuếch đại sinh học các chất độc hại lên chuỗi thức ăn khi động vật ăn thịt ăn con mồi. Đó là cách cá ngừ và các loại cá lớn khác tích tụ một lượng lớn chất độc, chẳng hạn như thủy ngân.

Các hệ sinh thái biển cũng bị đe dọa bởi các rác thải biển, có thể bóp cổ, làm ngạt thở và làm chết các loài động vật biển. Phần lớn các rác thải này, chẳng hạn như túi nilon, chai nhựa,… bị cuốn vào cống rãnh và cống thoát nước mưa và cuối cùng trôi ra biển, biến đại dương của chúng ta thành bãi rác khổng lồ trôi nổi. Dụng cụ đánh cá bị vứt bỏ và các loại rác khác là nguyên nhân gây hại cho hơn 200 loài sinh vật biển khác nhau.

Trong khi đó, quá trình axit hóa đại dương đang khiến động vật có vỏ và san hô khó tồn tại hơn. Mặc dù chúng hấp thụ khoảng một phần tư lượng ô nhiễm carbon được tạo ra mỗi năm do đốt nhiên liệu hóa thạch, nhưng các đại dương đang trở nên có tính axit hơn. Quá trình này khiến động vật có vỏ và các loài khác khó tạo vỏ hơn và có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh của cá mập, cá hề và các sinh vật biển khác.

– https://www.nrdc.org/stories/water-pollution-everything-you-need-know
– https://www.who.int/data/gho/map-gallery-search-results?&maptopics=0b24388a-5ace-4e7f-883f-51f00f21064f

https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/drinking-water
https://moitruong.edu.vn/

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *